Hiệu quả, Uy tín, Chất lượng
Efficiency, Reputation, and Quality
EnglishFrenchGermanVietnamese

Tam nông trong thực hiện các cam kết WTO

Bắt đầu từ tháng 1-2007, Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có nghĩa vụ thực hiện những cam kết theo lộ trình đã xác định, đồng thời được hưởng các quyền của một thành viên thuộc tổ chức này. Theo nội dung các “biểu cam kết” đã công bố, có thể thấy trong quá trình thực hiện các cam kết WTO, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân sẽ chịu những ảnh hưởng không nhỏ, từ đó nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, đòi hỏi Nhà nước có những giải pháp thích hợp để nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam nhanh chóng thích ứng với tình hình mới.

1. Những vấn đề đặt ra

Là một thể chế thương mại toàn cầu, hoạt động của WTO tuân theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, tạo dựng nền tảng ổn định cho phát triển, đảm bảo thương mại tự do thông qua đàm phán, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng và dành điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển. Với những nguyên tắc đó, mọi nền kinh tế thành viên đều bình đẳng, tự do cạnh tranh với nhau. Các nước đang phát triển mặc dù có được hưởng một số quyền ưu đãi, nhưng những quyền đó không vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối xử, đảm bảo thương mại tự do theo các nghĩa vụ phải thực hiện mà các nước đã cam kết khi đàm phán để gia nhập tổ chức này.

Xét từ góc độ cơ hội và thách thức đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, khi thực hiện các cam kết WTO, Việt Nam có cơ hội để hàng nông sản xâm nhập sâu rộng vào thị trường thế giới, phát huy ưu thế của nền nông nghiệp nhiệt đới trong buôn bán toàn cầu, tăng thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo thế và lực mới cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống nông dân... Có nghĩa là, chúng ta được hưởng nhiều “quyền” trong các hoạt động thương mại với các nước thuộc tổ chức này. Song bao giờ “quyền” cũng đi liền “nghĩa vụ”. Bên cạnh việc khai thác các cơ hội để được hưởng các “quyền”, chúng ta có “nghĩa vụ” thực hiện các cam kết đã ký.

Gia nhập WTO là nấc thang cao nhất trong quá trình mở cửa nền kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế toàn cầu; là cơ hội lớn nhất để đất nước khai thác các lợi thế do quá trình hội nhập kinh tế đem lại để phát triển đất nước nói chung, nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Song, gia nhập WTO cũng là thách thức lớn nhất đối với nền kinh tế mang nặng tính chất tiểu nông của nước ta, nhưng buộc phải vượt qua.

Sau 20 năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã đạt những thành tựu hết sức quan trọng, đang tiếp tục phát triển để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu đưa nước ta “cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020”. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của các nước đi trước và những nội dung đã thoả thuận trong đàm phán, có thể thấy, khi thực hiện các cam kết với WTO, nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta sẽ phải đối mặt với những thách thức không thể xem thường.

- Thực hiện các cam kết WTO, theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Việt Nam phải thực hiện một số cải cách theo hướng: tiến hành những điều chỉnh cơ cấu lớn liên quan đến doanh nghiệp và các hộ nông dân. Do phải xóa bỏ mọi trợ cấp nông nghiệp và cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản, nên sẽ diễn ra xu h­ướng: thu nhập của hộ nông dân giảm sút, khoảng cách thu nhập giữa cư dân thành thị và nông thôn gia tăng và có khả năng tăng tỷ lệ hộ nghèo và đói. Sự giảm sút một cách t­ương đối thu nhập của hộ nông dân sản xuất những sản phẩm nông nghiệp bị sản phẩm nhập khẩu cạnh tranh trực tiếp, đặc biệt là những sản phẩm dựa trên lợi thế đất đai, vốn không phải là thế mạnh của Việt Nam. Do đó, sẽ giảm lư­ợng lao động phổ thông nông nghiệp, cũng tức là làm giảm thu nhập của bộ phận này.

- Sự dôi dư lao động nông nghiệp làm tăng nguồn cung lao động phổ thông dẫn đến tình trạng thiếu việc làm gây sức ép cho xã hội. Một đất n­ước 70% dân số làm nông nghiệp và khi hơn 10 triệu hộ nông dân phải đương đầu với những khó khăn do sức ép cạnh tranh từ hàng nông sản nước ngoài thì đời sống của họ sẽ bị ảnh h­ưởng, từ đó nảy sinh những vấn đề xã hội không nhỏ. Đây cũng là điều đã được các chuyên gia nước ngoài cảnh báo. Rõ ràng, chúng ta cần khẩn trương hoàn tất kế hoạch tổng thể về giải quyết vấn đề “tam nông” khi phải thực hiện các cam kết WTO, không thể muộn hơn.

- Nội dung các “Biểu cam kết về hàng hóa” và “Biểu cam kết về dịch vụ” cho thấy, để thực hiện các cam kết này, nền kinh tế nước ta phải vượt qua nhiều khó khăn. Quá trình thực hiện những cam kết đó sẽ tác động đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập và WTO cũng chấp nhận cho Việt Nam hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp cho phi nông nghiệp, quyền kinh doanh v.v.. Trong cam kết về thuế nhập khẩu, Việt Nam đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong 5 năm. Với hàng công nghiệp, mức bình quân giảm từ 16,8% xuống còn 12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm(1).

Với những cam kết nói trên, nhìn một cách tổng thể, trong quá trình thực hiện sẽ có một sự thay đổi hết sức quan trọng về hoạt động thương mại, thị trường Việt Nam sẽ mở rộng cửa đối với hàng hóa nông sản và dịch vụ của các nước thành viên, và đổi lại, chúng ta cũng sẽ được hưởng những quyền đó khi hàng nông sản của Việt Nam thâm nhập thị trường các nước WTO. Tuy nhiên, khả năng thực hiện quyền này của Việt Nam và các nước không ngang nhau. Trong WTO, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện vẫn là sản xuất nhỏ, năng suất, chất lượng thấp, trong khi đó, nhiều thành viên của WTO có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao. Nông nghiệp Mỹ, nông nghiệp Tây và Bắc Âu, nông nghiệp một số nước châu Á đều đã phát triển.

Rất nhiều vấn đề đang đặt ra cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam: làm thế nào để hàng nông sản Việt Nam không bị mất thị phần ngay trên sân nhà khi chúng ta thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết WTO? Phải bắt đầu từ đâu trong tư duy, phải làm gì và làm như thế nào để những người nông dân Việt Nam không bị thiệt thòi khi phải đương đầu với những khó khăn do sức ép cạnh tranh từ hàng nông sản nước ngoài ảnh h­ưởng đến đời sống; khi diện tích đất canh tác cứ ngày bị thu hẹp dần do yêu cầu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp để tiếp nhận mới các dòng đầu tư nước ngoài; khi người nông dân được nhận tiền đền bù nhưng không biệt sử dụng một cách có hiệu quả, không biết tìm kiếm cơ hội kinh doanh để tự mình trở thành ông chủ; khi chấp nhận con đường làm thuê nhưng lại không thể kiếm được việc làm do trình độ tay nghề chỉ ở cấp độ lao động phổ thông…?

2. Những biện pháp để phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và cải thiện đời sống nông dân trong quá trình thực hiện các cam kết WTO

Trước hết cần khẳng định rằng, toàn bộ quá trình vận động của nền kinh tế Việt Nam đều phải vì lợi ích quốc gia dân tộc, giữ vững tính độc lập tự chủ, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, là định hướng chính trị chỉ đạo mọi suy nghĩ và hành động của mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết WTO. Tuy nhiên, việc quán triệt mục tiêu đó tuyệt nhiên không có nghĩa là tiếp tục nuôi dưỡng thói quen dựa dẫm, trông chờ, ỷ lại vào sự bảo trợ của Nhà nước như trước đây, mà phải bằng nỗ lực chủ quan, chủ động và tích cực phối hợp của các cấp các ngành, của mọi doanh nghiệp và người lao động, thích ứng với điều kiện mới, tìm kiếm những con đường, biện pháp để nông nghiệp, nông thôn và nông dân trụ vững, vươn lên trong điều kiện mới của nền kinh tế. Với quan niệm đó, cả trước mắt và lâu dài, cần coi những nội dung dưới đây như những giải pháp cho vấn đề đặt ra để tập trung mọi nỗ lực thực hiện.

Một là, nghiên cứu xây dựng một chính sách “cả gói” giải quyết vấn đề “tam nông” phù hợp với điều kiện Việt Nam trong khuôn khổ thực hiện các cam kết WTO.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, là thành viên của WTO, Chính phủ Việt Nam phải đồng thời giải quyết hai việc: Thứ nhất, tiếp tục các chính sách kinh tế mà dù có là thành viên WTO hay không, vẫn phải làm, vì đây là chính sách cơ bản. Thứ hai, thực hiện một số công tác mới trong tư cách thành viên WTO với tính cách là chính sách đáp ứng. Hai công việc này hỗ trợ lẫn nhau, cái sau thúc đẩy cái trước và cái trước tạo điều kiện cho cái sau. Điều đó cũng có nghĩa là, Nhà nước (trực tiếp là Chính phủ) cần tiến tới một phương án mang tính cơ bản, lâu dài với tính cách là một “chiến lược” hoàn chỉnh đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân - tạm gọi là chính sách “Tam nông”. Chính sách đó cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhưng được đặt trong điều kiện thực tiễn mới - các nội dung đã cam kết của nước ta khi gia nhập WTO và đã đến thời điểm thực hiện, đồng thời tính đến những vấn đề thực tế của “tam nông” nước ta hiện nay.

Nội dung cốt lõi của “chiến lược” này phải bao hàm các vấn đề: khắc phục nếp nghĩ, cách làm của người nông dân sản xuất nhỏ; xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển “tam nông”, chính sách phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn; chính sách về tích tụ ruộng đất, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, phát triển nông nghiệp sinh thái, phát triển làng nghề; những chủ trương lớn về đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng môi trường văn hoá mới…với một hệ thống những điều kiện đảm bảo tính khả thi tương ứng.

Hai là, có biện pháp tích cực và quyết liệt nhằm khắc phục cách nghĩ, cách làm, cách sống của người “tiểu nông” trong quá trình hội nhập.

Có thể tạm gọi cách nghĩ, cách làm, cách sống của người nông dân nước ta mang nặng tâm lý của người tiểu nông mang tính tự phát, manh mún…, là sản phẩm của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu; kết quả của một quá trình lịch sử tự nhiên, địa lý, chính trị, xã hội, đã tồn tại nhiều thế kỷ ở nước ta. Nhìn từ góc độ kinh tế, nét đặc trưng của tâm lý tiểu nông là: tư duy manh mún, tầm nhìn hẹp; tính thụ động, ỷ lại, yên phận; tâm lý ăn xổi, kinh doanh “chụp giật”, không dám mạo hiểm; sợ rủi ro; tác phong làm ăn tuỳ tiện, ý thức kỷ luật kém; tư tưởng bình quân chủ nghĩa. Ngoài ra còn phải kể đến tính cục bộ, gia trưởng, dòng họ, tư tưởng dĩ hoà vi quý, tư tưởng trật tự lão quyền…(2).

Tất cả những đặc trưng đó thực sự không phù hợp với những đòi hỏi của lối tư duy kinh tế, phong cách công nghiệp của kinh tế thị trường, hơn nữa lại là kinh tế thị trường ở quy mô toàn cầu. Trong quá trình đổi mới, yếu điểm này của nông dân Việt Nam tuy đã được khắc phục một bước nhưng chưa được giải quyết triệt để.

Kinh tế thị trường ở cấp độ toàn cầu đòi hỏi các chủ doanh nghiệp, kể cả nông dân có kiến thức về kinh tế thị trường và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh trong môi trường kinh tế hội nhập, hiểu biết khoa học công nghệ, pháp luật trong nước và quốc tế; có ý thức tuân thủ pháp luật, có tính năng động, nhạy bén và sáng tạo, tính quyết đoán cao, dám mạo hiểm…

Trong khi đó, người nông dân - chủ thể chủ yếu của nông nghiệp Việt Nam và của đại bộ phận kinh tế nông thôn - vẫn chưa sẵn sàng cho thực hiện các cam kết WTO, vẫn tự trói mình trong nếp nghĩ, cách làm của người tiểu nông.

Bằng các biện pháp tích cực, không bị ràng buộc bởi các cam kết WTO, Nhà nước có thể giúp nông dân bằng con đường như: đổi mới và nâng cao chất lượng các hoạt động khuyên nông, khuyến ngư, khuyến lâm; thực hiện phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển kết cấu hạ tầng; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực khu vực nông thôn hiện đang tụ hậu so với khu cực thành thị hiện nay; xây dựng môi trường văn hoá tiến bộ lành mạnh ở khu vực nông thôn…đặng giúp nông dân thoát dần ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.

Ba là, phát huy vai trò quản ký của Nhà nước, tranh thủ thời gian để thay đổi những tập quán sản xuất, kinh doanh không phù hợp với xu hướng hội nhập.

Nếu như hai giải pháp trên mang tính cơ bản và cấp bách trên một số khía cạnh nhất định, thì giải pháp này thuần tuý mang tính tình thế nhằm khắc phục những vấn đề nổi cộm và cấp bách nhất trong lĩnh vực nông nghiệp.

Vấn đề nổi cộm của nông nghiệp nước ta hiện nay là phải thay đổi tập quán sản xuất, phải làm cho tập quán sản xuất kinh doanh của những người nông dân Việt Nam phù hợp với các điều khoản mà Việt Nam đã cam kết với WTO. Phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam và đòi hỏi người nông dân phải có các biện pháp giữ gìn, bảo vệ thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp hiện đã được xác lập của Việt Nam như: gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, cá da trơn… Gắn thương hiệu với tiêu chuẩn môi trường; đồng thời phải giữ vững chữ tín trong kinh doanh.

Nhà nước cần có những chính sách và hệ thống chế tài phù hợp “buộc” người nông dân muốn làm giàu trong tiến trình hội nhập tự thấy phải thay đổi cách nghĩ, cách làm, tức thay đổi tâm lý của người tiểu nông để thích nghi với thời thế. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách “hỗ trợ” trong khuôn khổ những ưu đãi của WTO, như đào tạo đội ngũ doanh nhân nông nghiệp và đào tạo lại đội ngũ lao động nông nghiệp, giúp họ những khả năng vươn lên, tự biết phải làm gì và làm như thế nào để có thể khai thác các lợi thế và thực hiện các nghĩa vụ trong các cam kết mà Việt Nam đã thỏa thuận với WTO.

Bốn là, khai thác tối đa những ưu đãi của WTO đối với các nước thành viên thuộc diện đang phát triển để nông nghiệp, nông thôn và nông dân hội nhập có hiệu quả .

Vào một “sân chơi” với các luật lệ đã có sẵn, chúng ta thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình, đồng thời cần khai thác triệt để các quyền được hưởng, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia. Là một trong những nước đang phát triển, theo luật của WTO và các cam kết đã thỏa thuận, Việt Nam được hưởng ưu đãi về: quyền được mở rộng thương mại, xuất khẩu, thu hút vốn nước ngoài, nâng cao ý thức cạnh tranh, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức sống và quyền được hưởng những ưu đãi đối với các các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi.

Như vậy, các cơ quan chức năng của Nhà nước cần thông tin rõ, cụ thể và có biện pháp khai thác một cách có lợi nhất những ưu đãi được hưởng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân, để trên cơ sở đó, Nhà nước ban hành những chính sách phù hợp với đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta hiện nay, giúp họ hội nhập vào nền kinh tế thế giới có hiệu quả.

Cần nhận rõ rằng, gia nhập WTO là để khai thác các điều kiện quốc tế phục vụ cho lợi ích của quốc gia, dân tộc. Thực tiễn cho thấy, không nước nào chịu “khoanh tay” để tuột mất cơ hội giành lợi ích về cho đất nước, dân tộc mình, hoặc, khi lợi ích của mình bị phương hại. Kinh nghiệm của các nước thành viên WTO trong bảo vệ lợi ích dân tộc cho thấy, họ đã nghiên cứu, rà kỹ mọi luật lệ của WTO để bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Chúng ta cũng phải làm như vậy.
Liên hệ với người đăng tin: Trần Lan Phương, e-mail: tranlanphuong@agro.gov.vn

Lại Ngọc Hải (* Đại tá PGS.TS, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự –Bộ Quốc phòng)
Up top